Ai đã ăn con hàu đầu tiên?

Điều này và tất cả các sự kiện tiếp theo xảy ra sau quá trình tiến hóa của con người. Nếu thời gian của loài người chúng ta trên trái đất là một ngày, thì nó xảy ra vào lúc 10:53 sáng (cách đây 164.000 năm).

Cody Cassidy

Vào mùa hè năm 2007, một nhóm các nhà khảo cổ học, dẫn đầu bởi Curtis Marean thuộc Đại học Bang Arizona, làm việc trong một loạt các hang động ở mũi phía nam của Nam châu Phi, đã tìm thấy bằng chứng hóa thạch về một nơi trú ẩn của Người Homo sapiens 164.000 năm tuổi. Họ đã phát hiện ra tàn tích của than củi từ những ngọn lửa trại cổ đại, các công cụ bằng đá, sắc tố đỏ và quan trọng nhất là những cái vỏ hàu – bằng chứng sớm nhất cho ai đó đã ăn thịt hàu bất chấp sự nhầy nhụa. Nhưng theo Marean, vỏ sò có ý nghĩa nhiều hơn là một cái họng mạo hiểm. Ông tin rằng những loài giáp xác này là phần thưởng có thể ăn được của một quan sát thiên văn khó khăn và ít người biết đến của một nhà khoa học sống cách đây hơn 100.000 năm.

Hang động Pinnacle Point ở mũi cực Nam châu Phi,
nơi phát hiện ra các vỏ hàu.

Anh hùng khoa học và nhà ẩm thực liều lĩnh này là ai đã cả gan xực con hàu đầu tiên?

Tên cô ấy là Oyster Gal – hoặc ít nhất đó là những gì tôi sẽ gọi cô ấy. Cái tên này không quá xa vời như ta nghe thấy, và nó thậm chí có thể là một bản dịch thô cái tên thật của cô ấy. Các quy ước đặt tên trong suốt lịch sử thường mang tính mô tả (xem “Johnson”, “Smith”, “Baker”, v.v.), Thay vì một tập hợp âm thanh ngẫu nhiên, dễ chịu. Và nếu tên của nó có ý nghĩa, thì ai đó có thể gọi là người đầu tiên cạy một vật thể giống như đá được tìm thấy trong một vủng nước nhỏ và ăn thịt sinh vật nhợt nhạt, mềm èo bên trong?

Jonathan Swift từng nói, “Người ấy là một người mạnh dạn ăn hàu trước tiên”, và Swift có lẽ đã đúng khi cho rằng ăn một phần thịt của loài giáp xác nhạt màu là một lựa chọn dũng cảm. Nhưng có lẽ ông ấy đã sai ở phần khác. Bằng chứng cho thấy rằng không phải một người đàn ông dám thử hàu lần đầu tiên; mà là một người phụ nữ táo bạo.

Ở mỗi bộ tộc săn bắn hái lượm được các nhà nhân chủng học hiện đại nghiên cứu, đều có khoảng cách giới trong việc kiếm thức ăn. Bất kể công việc nặng nhọc rơi vào tay người đi săn hay người hái lượm, sự phân chia này rất nghiêm ngặt: Phụ nữ thường thu thập các mặt hàng chủ lực thu được một cách đáng tin cậy hơn – như các loại hạt, quả mọng, rễ và động vật có vỏ – trong khi nam giới thường tìm kiếm thức ăn chạy, bay hoặc bơi. Ngay cả ở những hòn đảo nhiệt đới ở phía bắc Úc, nơi có lượng thức ăn dồi dào, đàn ông kiếm ăn rất ít. Và ở Tierra del Fuego, cực nam của Nam Mỹ, nơi phần lớn calo đến từ việc săn bắn các loài động vật biển có vú lớn, phụ nữ không đi săn.

Không có sự đồng thuận nhân học nào giải thích sự phân chia giới tính giữa những người săn bắn và hái lượm. Tuy nhiên, có những lý thuyết. Richard Wrangham tạo nên mối liên hệ với việc làm chủ ngọn lửa, và cụ thể hơn là thời gian cần thiết để nấu ăn. Tinh tinh ăn thức ăn nhanh nhất có thể, vì sợ một con tinh tinh lớn hơn sẽ ăn giựt. Giả sử những hominin ban đầu hoạt động giống nhau, nấu ăn sẽ là điều không thể đối với tất cả trừ những người lớn tuổi hơn. Kết quả là, Wrangham đưa ra giả thuyết, để nấu ăn, những người phụ nữ buộc phải vào một cái lưới bảo vệ chống mafia với những người đàn ông cao to hơn để đảm bảo rằng một phụ nữ nhỏ con hơn có thể nấu ăn để đổi lấy một số thức ăn. Với những người đàn ông hiện đã được đảm bảo một bữa ăn tối, họ có thể tự do tìm kiếm các loại thực phẩm có giá trị cao hơn mà không phải chịu đói trong trường hợp thất bại. Đây chỉ là một giả thuyết và hầu như không thể chứng minh được, nhưng nó sẽ giải thích mối quan hệ hợp tác kiếm ăn giữa đàn ông và phụ nữ ở H. sapien, điều không được quan sát thấy ở bất kỳ loài linh trưởng nào khác. Nó cũng sẽ giải thích sự phân công lao động theo giới chặt chẽ giữa những người săn bắn hái lượm, tại sao những thực phẩm chủ yếu như hàu thường được phụ nữ thu hoạch nhiều hơn và tại sao phụ nữ thường ăn trước.

Oyster Gal là H. sapiens, có nghĩa là nếu hôm nay cô ấy ngồi trên xe buýt cạnh bạn, bạn sẽ không hoảng hốt ngay lập tức. Tầm vóc, thân hình, khuôn mặt và mái tóc của cô ta trông rất quen thuộc. Cô ấy có hộp sọ, hàm, răng, xương chậu, bàn chân và bàn tay cùng kích thước với chúng ta. Cô ấy sẽ thấp hơn so với tiêu chuẩn hiện đại, nhưng tư thế và dáng đi của cô ấy sẽ hoàn toàn hiện đại. Làn da của cô sẽ không có lông và sẫm màu, được tiến hóa để bảo vệ tốt hơn khỏi ánh nắng gay gắt của mặt trời châu Phi. Tóc trên đầu cô ấy sẽ sẫm màu, ngắn và xoăn.

Tuy nhiên, quần áo của cô ấy sẽ hơi khác thường. Có lẽ cô ấy đã không mặc gì, hoặc ít nhất là thứ chúng ta không nhận ra được. Việc may mặc chưa được biết. Cây kim xương đã không xuất hiện trong hàng trăm nghìn năm khác, và các nhà nghiên cứu hiện nay tin rằng việc sử dụng quần áo và giày dép đầu tiên xảy ra khá muộn trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Theo nhà nhân chủng học Erik Trinkaus, người đã nghiên cứu xương ngón chân của loài H. sapiens cổ đại, ngón chân của Oyster Gal khỏe hơn đáng kể so với của bạn hoặc của tôi, có thể vì cô ấy đi bộ mà không có giày hỗ trợ. Trinkaus tin rằng xương ngón chân của H. sapiens đã bị teo trong giới hạn của những đôi giày chắc chắn, giải thích sự khác biệt đáng chú ý về kích thước của các ngón chân cũ. Theo Trinkaus, ngón chân “hiện đại” không xuất hiện cho đến cùng thời với kim xương, điều này cho thấy H. sapiens đã không phát minh ra giày cho đến rất lâu sau Oyster Gal.

Khi trưởng thành, Oyster Gal có lẽ đã là mẹ của những đứa trẻ, nhưng có lẽ không nhiều. Trong một nghiên cứu của nhà nhân chủng học Richard Borshay Lee về những người săn bắn hái lượm !Kung San ở sa mạc Kalahari ở Châu Phi, ông nhận thấy rằng phụ nữ San đã có con ít nhất từng 4 năm một. Vì họ không sử dụng một phương pháp tránh thai chính thức nên không rõ lời giải thích cho tình trạng vô sinh kéo dài này. Một giả thuyết được đề xuất bởi Rose Frisch và Janet McArthur, đó là phụ nữ !Kung, mặc dù khỏe mạnh, đơn giản là không có đủ chất béo trong cơ thể để vừa cho con bú và vừa đồng thời có kinh. Theo lý thuyết của họ, những chăm sóc điều dưỡng có thể đã cung cấp cho Oyster Gal một hình thức kiểm soát sinh đẻ tự nhiên.

Nếu cô ấy có một đứa con nhỏ, cô ấy sẽ giao tiếp với nó, và với những đứa bạn đồng trang lứa của nó, nhưng ở mức độ nào là một cuộc tranh luận lớn giữa các nhà khảo cổ học. Richard Klein, giáo sư nhân chủng học tại Stanford và là tác giả của cuốn “Bình minh của văn hóa nhân loại”, nói với tôi ông ấy nghĩ rằng H. sapiens vào thời Oyster Gal có lẽ thiếu một ngôn ngữ hiện đại, với lý do là văn hóa hoặc công nghệ trong lều trại của họ quá non kém. Ông cho rằng nguồn gốc của ngôn ngữ hiện đại  có rất lâu sau Oyster Gal – cách đây khoảng bốn mươi lăm nghìn năm – khi các chỗ cắm dùi của H. sapiens thể hiện sự bùng nổ của các đồ tạo tác văn hóa. Các địa điểm có từ thời này đưa ra bằng chứng rõ ràng về các hành vi hiện đại, chẳng hạn như nghệ thuật, âm nhạc và niềm tin vào siêu nhiên.

Ngược lại, Marean tin rằng Oyster Gal mơ mộng, cười đùa, và đàm thoại trôi chảy và thông suốt. “Ngôn ngữ sử dụng vào lúc này,” ông việt cho rôi, “cũng phong phú  như của chúng ta.” Để chứng minh, Marean nêu ra các vỏ sò được trang trí và màu sắc tự nhiên được dùng để vẽ mà ông tìm thấy trong các hang động Pinnacle Point ở Nam châu Phi, cả hai điều đó tiêu biểu cho những điển hình về cách tư duy ký hiệu mà các nhà khảo cổ học tìm kiếm khi xác định một sự hhiện đại về nhận thức trong nền văn hóa cổ đại. Marean cũng tin rằng nhiều nhiều công cụ do cô tạo ra phức tạp đến mức các kỹ thuật chế tạo chúng sẽ không thể dạy và truyền đạt nếu không có ngôn ngữ.

Cho đến gần đây, quan điểm của Marean thuộc về thiểu số và hầu hết các nhà khảo cổ đều đồng ý với Klein. Họ tin rằng Oyster Gal và những người cùng thời với cô đã khác biệt đáng kể so với H. sapiens hiện đại. Giờ đây, với việc phát hiện ra các đồ tạo tác trong hang động Pinnacle Point và các ví dụ cổ xưa khác về biểu tượng, các nhà nghiên cứu đã phân biệt nhiều hơn về cách Oyster Gal nhìn thế giới của cô ấy và điều gì đã xảy ra khi cô ấy nói.

Cô ấy chắc chắn đã có thể giao tiếp, nhưng ở mức độ nào vẫn còn là vấn đề tranh luận của giới khoa học. Tuy nhiên, chắc chắn rằng cô và những người cùng thời của cô đã không có những đổi mới công nghệ quan trọng của H. sapiens sau này. Chẳng hạn, không có bằng chứng nào cho thấy cô ấy đã sử dụng cần câu, lưới hoặc thuyền, điều này giải thích tại sao các lều trại của H. sapiens từ thời Oyster Gal hiếm khi được tìm thấy dọc theo bờ biển. Đối với Oyster Gal, đại dương tượng trưng cho một vùng đất hoang hóa thực phẩm và do đó việc sống trên bãi biển sẽ làm giảm một nửa diện tích kiếm ăn của cô một cách không cần thiết. Điều này giải thích, theo Marean, tại sao trong các thời đại trước Oyster Gal, có rất ít bằng chứng cho thấy hominin ăn thức ăn từ biển và không có dấu hiệu về vỏ ốc sò. Theo Marean, một trong những lý do chính là thủy triều. Hàu chỉ lộ ra khi thủy triều xuống thấp nhất, có nghĩa là 95% thời gian ‘chúng sinh hàu’ sẽ không thể tiếp cận được. Sự hiếm có và khó đoán này có lẽ giải thích tại sao những người đầu tiên không thu thập chúng. Theo Marean, “những người săn bắn hái lượm không bao giờ đặt hệ thống sinh kế dựa trên các phương pháp thu thập mà họ không thể lập kế hoạch hoặc hiểu được.”

Các hang động ở Pinnacle Point chứa lớp vỏ sò dày đặc. Rõ ràng, hàu đã trở thành một thực phẩm chính của chế độ ăn uống, có lẽ vì Oyster Gal đã phát hiện ra dấu hiệu dự đoán sự xuất hiện của chúng.

Khi Oyster Gal ăn con hàu đầu tiên của mình, cô ấy có thể đã phiêu lưu ra biển để tìm kiếm thứ khác: một con rùa đang ngủ hoặc những quả trứng của nó, hoặc có thể là một con cá voi mắc cạn hoặc một con sư tử biển đang nghỉ ngơi. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một loại ngỗng, một trong những hiện vật trong các hang động Coronula Diadema, loại ngỗng này chỉ sống trên da của cá voi lưng gù – một đối tượng đáng ngờ trong một hang động cách đại dương ba dặm. Cuối cùng, trong một chuyến đi này, Oyster Gal đã vô tình đến nơi thủy triều siêu thấp và tìm thấy một vài con hàu hiện ra. Và sau đó cạy vỏ của nó và xơi ruột con hàu.

Với tất cả lòng kính trọng tôi dành cho Jonathan Swift, có lẽ cô ấy không dũng cảm như người ta vẫn tưởng.

Một số loài động vật khác, bao gồm cả khỉ đầu chó hiện đại, ăn hàu, nếu Oyster Gal quan sát thấy, sẽ khiến cổ tin tưởng vào khả năng ăn được của chúng. Nhưng khỉ đầu chó cũng ăn cả hoa và vỏ cây, và một người hái lượm thức ăn có kinh nghiệm như Oyster Gal sẽ phải thận trọng làm theo gương ăn thực vật của các loài động vật khác. Đó là một trải nghiệm đôi khi có thể kết thúc tồi tệ. Ví dụ, nếu cô ấy chứng kiến ​​một con thỏ ăn một vài quả của cây Atropa belladonna và làm như vậy, cô ấy sẽ chết ngay trong ngày.

Tuy nhiên, nếu cô ấy nhìn thấy một con vật khác đang ăn hàu, nó có thể mang lại cho cô ấy sự can đảm mà cô ấy cần. Nấu con hàu cố bắt được sẽ chắc ăn hơn. Thực phẩm nấu chín an toàn hơn thực phẩm sống – và những con hàu nhăn nheo, nhầy nhụa chắc chắn sẽ cần thận trọng.

Tuy nhiên, thói quen ăn rau củ không phải là bản năng thực sự của Oyster Gal. Dựa trên số lượng vỏ hàu được tìm thấy trong các hang động Pinnacle Point, Marean tin rằng Oyster Gal biết khi nào nên đi ra đại dương.

Nói cách khác, cô học cách dự đoán thủy triều.

Thủy triều siêu thấp ở cực nam của bờ biển châu Phi xảy ra trong vài giờ trong vài ngày mỗi tháng. Nhưng chúng không chỉ hiếm mà còn không nhất quán. Mức độ và thời gian của thủy triều thấp và thủy triều lên thay đổi đáng kể trong suốt tháng, từ sự khác biệt nhỏ giữa thủy triều thấp và cao đến mức chênh lệch lớn, và lời giải thích vẫn còn là một bí ẩn đối với người dân trong hàng triệu năm. Thật dễ dàng để hiểu tại sao. Giải pháp cho kế hoạch của họ nằm ở một nơi khó tin và dường như không liên quan: bầu trời đêm.

Thủy triều ở đại dương phần lớn là do lực hút của mặt trời và mặt trăng. Khi cả hai thẳng hàng – ở cùng một phía của hành tinh hoặc ở hai phía đối diện – chúng đến với nhau ở trung tâm của Trái đất và tạo ra một thủy triều vừa rất cao vừa rất thấp. May mắn thay cho Oyster Gal, sự kiện dường như ngẫu nhiên này được báo trước bằng sự xuất hiện của trăng tròn hoặc trăng non. Điều đó có nghĩa là Oyster Gal không chỉ là một kẻ mạo hiểm khi ăn tối. Cô ấy là một nhà thiên văn.

Mối liên hệ giữa chuyển động của đại dương và các hình dạng khác nhau của một vật thể bí ẩn màu trắng lớn trên bầu trời đêm là vô cùng rõ ràng đến nỗi nhiều người ngày nay vẫn chưa nhìn thấy nó. Oyster Gal, tuy nhiên, đã và làm như vậy, có lẽ đã trở thành nhà thiên văn học thực tế đầu tiên trên thế giới. Một khi cô ấy có thể dự đoán thủy triều, Oyster Gal có thể tự tin lên kế hoạch cho các chuyến đi đến đại dương, và bằng chứng từ các hang động cho thấy hàu đã trở thành một thực phẩm chính đáng tin cậy trong chế độ ăn uống của cô.

Trong khi việc phát hiện ra mối liên hệ của mặt trăng với thủy triều được tôn vinh, Oyster Gal không được bao lâu để tận hưởng danh tiếng của mình. Là một phụ nữ ở độ tuổi đôi mươi của thời cổ đại, các bảng tính toán phân tich đương đại cho thấy rằng cô ấy sắp kết thúc cuộc đời mình. Theo một phân tích về độ mòn của răng của Rachel Caspari, một nhà nhân chủng học tại Đại học Central Michigan, 2/3 số H. sapiens ở thời đại này đã chết ở độ tuổi 20 và rất ít người vượt quá ba mươi lăm tuổi. Mặc dù không thể biết chính xác cô ấy chết như thế nào nhưng chúng ta có thể nói khá chắc chắn rằng cô ấy đã chết như thế nào. Hầu như tất cả các nguyên nhân chính của cái chết ngày nay đều chưa được biết đến từ thời tiền sử, hoặc vì chúng chủ yếu là các bệnh của tuổi già (ung thư, bệnh tim, đột quỵ), hoặc vì chúng đòi hỏi một quần thể lớn và tập trung để hỗ trợ họ (dịch tả, thương hàn và cúm). Cả hai trường hợp này đều không tồn tại trong thời Oyster Gal.

Các nguyên nhân có thể là do sinh đẻ, sốt rét, tai nạn, giết người hoặc nhiễm vi khuẩn. Cô ấy có thể đã bị tấn công bởi một kẻ săn mồi khi đang kiếm ăn. Hoặc có thể cái họng phiêu lưu của cô ấy đã bắt cô ấy trả giá.

Một khi cô ấy chết, cô ấy có thể đã được chôn cất bởi người dân của mình. Nhưng liệu việc chôn cất cô là để tôn vinh trí nhớ của cô hay đơn giản là để ngăn chặn những kẻ ăn xác chết, một lần nữa, là chủ đề tranh cãi của các học giả. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những thi thể lâu đời hơn Oyster Gal được chôn cất, nhưng những ngôi mộ không có bất kỳ món quà hay dấu hiệu chăm sóc nào mà sau này trở nên phổ biến trên tất cả các nền văn hóa.

Bằng chứng sớm nhất về một nghi lễ chôn cất đến từ một ngôi mộ ở Israel, nơi các nhà khảo cổ tìm thấy bộ xương của một người đàn ông với xương hàm của một con lợn rừng trên ngực, có niên đại 60 nghìn năm sau Oyster Gal. Vì vậy, không thể nói liệu Oyster Gal, một thiên tài khoa học thời tiền sử, người đã giúp giải quyết một trong những vấn đề vĩ đại nhất trong thời đại của cô, có được tổ chức một buổi lễ tưởng niệm hay không. Nếu vậy, tôi hy vọng một chiếc vỏ hàu đã được đặt trên ngực cô ấy. Lý tưởng nhất là cái có hình mặt trăng lưỡi liềm.

Nguồn: Who ate the first oyster?, NXB Penguin Books

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.